PSG.TS. Trần Anh Vũ

Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh

Từ lâu Dương cam cúc (DCC) đã được sử dụng trong những phương thuốc gia truyền ở châu Âu như Đức,Pháp, Anh, Hungary … , nổi tiếng với những chế phẩm đang được lưu hành tại nhiều nước trên thế giới như trà Natrol, Chamomile extract – nature’s way, Chamomile oil.  Hàng năm trên thị trường thế giới tiêu thụ hơn 4000 tấn hoa DCC. DCC được trồng chủ yếu để lấy hoa sản xuất tinh dầu và cao toàn phần. Các chế phẩm này được dùng trong ngành công nghiệp dược phẩm và mỹ phẩm.

Trước đây, DCC là một cây cỏ mọc hoang. Nhưng  càng ngày người ta càng phát hiện ra những đặc tính quý của nó nên nhiều nước trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu và đầu tư phát triển cây này.  Dương cam cúc đã được di thực vào Việt Nam từ những năm 60. Đến năm 1978, trung tâm trồng và chế biến cây thuốc Đà Lạt  đã bước đầu nghiên cứu được kỹ thuật trồng DCC nhưng chưa nhân rộng được cây này vì chưa có những công trình nghiên cứu và ứng dụng.

DCC là một cây dược liệu có nhiều đặc tính quý như tính kháng khuẩn, kháng viêm, kháng dị ứng,giảm đau, an thần, v.v,… Hoạt chất chủ yếu của hoa DCC là tinh dầu và cao toàn phần chứa flavonoid. Hiện nay trên thị trường các chế phẩm ngoại nhập có nguồn gốc từ DCC đang được ưa chuộng vì tính an toàn và hiệu quả nhưng có giá thành cao.

Dương cam cúc (DCC) thuộc họ cúc (Asteraceae). Có 2 loại DCC là DCC Đức German chamomile (Matricaria recutita L. hay Matricaria chamomilla L., chamomilla recutita L.) và DCC La Mã (Roman chamomile hay Chamaemelum nobile L.)

Thành phần hóa học chủ yếu của dược liệu DCC gồm tinh dầu và các polyphenol. Tinh dầu DCC tích lũy nhiều trong đế hoa và bầu hoa. Hàm lượng tinh dầu chứa khoảng 0,25-1,5%.

Ở Việt Nam, TS. Trần Anh Vũ và cộng sự đã phân lập được apigenin-7-glucosid từ cây DCC di thực. Sản phẩm được tinh chế, kiểm tra cấu trúc bằng các  phương pháp hiện đại: phổ UV-Vis, phổ hồng ngoại, phổ khối, phổ 1HNMR, 13CNMR  và được đánh giá, so sánh với chuẩn apigenin-7-glucosid USP (hàm lượng 100%) do Viện Kiểm Nghiệm thuốc Tp HCM nhập khẩu từ Hội đồng Dược điển Mỹ, đạt tiêu chuẩn làm chất chuẩn đối chiếu, phục vụ công tác kiểm nghiệm các chế phẩm chứa DCC.

Tác dụng dược lý của cao DCC và bisabolol đều có hoạt tính hạ sốt invitro. Theo Stephan M. (Romania),  khảo sát tác động kháng khuẩn của tinh dầu theo phương pháp khuếch tán. Thử nghiệm sơ bộ ghi nhận được tác động kìm hãm trên vi khuẩn Escherichia coli thể hiện rõ hơn khi sử dụng một lượng nhỏ tinh dầu với nồng độ 500ppm đã chứng minh tác dụng chống viêm của cao DCC, tinh dầu và những thành phần phân lập trong nghiên cứu in vivo.. Những thành phần chính chống viêm và chống co thắt của DCC là những hợp chất terpen, matricin, chamazulen,  bisabolol oxide A, B và bisabolol. Tác động chống co thắt đã được thủ nghiệm trên invitro và trên lâm sàng. cAMP và cGMP điều hòa cơ trơn dạ dày ruột dẫn đến chống co thắt.

Tác dụng chống viêm của các hợp chất đã được chứng minh trên những mô hình  thí nghiệm ở các loài động vật khác nhau (gây phù bàn chân chuột cống trắng với caragenin, gây viêm da bằng dầu ba đậu ở chuột nhắt trắng). Cao toàn phần DCC và phân đoạn flavonoid rất có hiệu quả làm giảm viêm khi áp dụng tại chỗ.

Kakuta H. (Nhật) đã nghiên cứu tác động tâm lý và sinh lý của những người ăn thạch chứa dịch chiết DCC so với những người ăn thạch không chứa  DCC. Ở 40 người nam, nữ ở độ tuổi trung bình 37,7+- 5,4 được theo dõi nhiệt độ da ngoại vi. Kết quả là sau 22 phút ăn thạch có chứa DCC ấm ( 600C), nhóm người này có sự gia tăng nhiệt độ có ý nghĩa so với  nhóm ăn thạch không chứa DCC.

Một thí nghiệm khác Yano-Kakuta E. (Nhật) nghiên cứu trên 50 phụ nữ trung niên và lớn tuổi có độ tuổi trung bình 58,9+-0,7 đang gặp khó khăn về giấc ngủ. Khi được dùng thạch ấm có chứa DCC 1 giờ trước khi ngủ trong suốt 2 tuần và sau đó được đánh giá về nhận thức giấc ngủ mỗi ngày bởi bảng điều tra giấc ngủ OSA, kết quả cho thấy yếu tố ngủ dễ dàng tăng có ý nghĩa và liên tục cải thiện giấc ngủ sau đó.

Một nghiên cứu lâm sàng mù kép về sự tái biểu mô hóa và sự chảy nước của vết thương cho thấy cao DCC có tác dụng làm giảm kích thước của vết thương và làm khô vết thương nhanh hơn. Cao DCC trộn trong một kem cơ bản đắp tại chỗ làm giảm viêm da tốt hơn hydrocortison 0,25%, và tốt hơn fluocortin butyl ester 0,75% và bufexamac 5%, nhưng đã không phân tích thống kê.

Các chế phẩm DCC được chứng minh có hiệu quả trong điều trị viêm niêm mạc do chiếu tia ở đầu và cổ và do kiệu pháp hóa học toàn than. Kobayasi Y. (Nhật) nghiên cứu tinh dầu DCC Đức có tác dụng ngăn chặn sự kích ứng da gây ra bởi chất gây kích ứng capsaicin ở nồng độ trị liệu.

DCC có hoạt tính estrogen (estrogenic activity). Trà DCC là loại  trà thuốc thông dụng dùng trị chứng nôn buổi sáng ở thai phụ trong suốt thai kỳ.

DCC có tác dụng tốt trong điều trị bệnh viêm, loét miệng. Sử dụng DCC trong hóa trị liệu cho thấy tác động làm giảm viêm nhiễm vùng miệng. Dung dịch súc miệng có chứa tinh dầu DCC được sủ dụng để phòng ngừa hoặc trì hoãn sự phát triển của chứng viêm miệng.

DCC là vị thuốc đã được ghi lại trong một số Dược điển  châu Âu. Dược liệu được dung uống để điều trị triệu chứng như khó tiêu, đầy chướng thượng vị, đầy hơi. Nước hãm hoa DCC điều trị trạng thái bồn chồn và mất ngủ nhẹ do rối loạn thần kinh. Ở Ấn Độ, DCC có hiệu quả đối với những bệnh trẻ em như rối loạn về răng, rối loạn dạ dày, đau tai, đau dây thần kinh và co giật. DCC còn được dùng đối với thể trạng yếu ớt, cơn đau chướng bụng, hysteria và sốt từng cơn.

DCC được bào chế kem thuốc, dầu gội đầu, thuốc đắp trị vết thương và viêm. Một thuốc hãm được dùng làm chất chống dị ứng dùng ngoài đối với eczema, vết thâm tím, mụn lở loét, đặc biệt chữa trĩ. Chamazulene là thuốc kháng histamine ở bệnh nhân dị ứng.

Ở Trung quốc, lá DCC được dùng làm thuốc lọc máu. Ở Brasil, DCC dưới dạng chè an thần làm bớt bồn chồn. Ở Italia, một bài thuốc gồm những cụm hoa DCC và lá Laurus nobilus để làm thuốc an thần trong trường hợp đau nội tạng và đau kinh dưới dạng thuốc sắc. Ở một số nước, DCC được dùng ngoài để điều trị viêm, kích ứng da và niêm mạc như vết nứt da, vết thâm tím, tổn thương vì cóng lạnh, sâu bọ cắn, kích ứng và nhiễm trùng miệng, lợi và trĩ. Dùng chế phẩm DCC hít ngửi để chữa triệu chứng kích thích đường hô hấp do cảm lạnh thông thường.

Tác dụng không mong muốn: Sự có mặt của lacton ở những chế  phẩm nụ hoa DCC có thể gây phản ứng ở những người nhạy cảm và có báo cáo về viêm da do tiếp xúc DCC gây nên. Có rất ít trường hợp dị ứng do DCC. Có báo cáo về vài trường hợp phản ứng phản vệ do uống nụ hoa DCC.

Tài liệu tham khảo

1.Trung tâm trồng và chế biến cây thuốc Đà lạt. Qui trình làm giống sản xuất,thu hoạch sản phẩm Dương cam cúc, tài liệu lưu hành nội bộ.

2.Mazokopakis EE,Vrentzon GE (2005), Matricaria  recutita L mouthwashsein methotrexate induced oral mucositis. Phytomedicine.

3.Presov Univesity, Slovas (2006), Program anh abstract bookof the Intenatural Symposium on Chamomile Reserch ,Developmen and production .

X
0903932504
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon